Vậy khi tôi trở nên tuyệt vọng về tình trạng vệ sinh,
Vậy khi tôi trở nên tuyệt vọng về tình trạng vệ sinh,
Môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố tiên quyết cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ, cần được đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển; phát triển kinh tế phải hài hòa với thiên nhiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế. Với quan điểm đó, những năm qua Việt Nam đã tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp bảo vệ môi trường đem lại hiệu quả tích cực. Thực trạng môi trường hiện nay Bảo vệ môi trường (BVMT) đang là một trong những vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm trong chiến lược phát triển chung của đất nước. Nhận thức được vai trò quan trọng của bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi bảo vệ môi trường là vấn đề cốt yếu. Năm 2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 03/6/2013, về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; và ban hành Kết luận số 56-KL/TW, ngày 23/8/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Ngày 13/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 450/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, năm 2020, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường thay thế Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
Đánh giá về công tác bảo vệ môi trường, mới đây Chính phủ đã có báo cáo Quốc hội về công tác bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2023 trên phạm vi cả nước. Theo đó, dẫn kết quả quan trắc đánh giá về môi trường không khí trong năm 2023 cho thấy, ô nhiễm không khí ở nước ta vẫn xảy ra vào một số thời điểm trong năm, trong đó tập trung tại các đô thị lớn nơi có mật độ giao thông cao và quá trình công nghiệp phát triển mạnh như: TP.Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh... Tình trạng ô nhiễm chủ yếu là do thông số bụi. Chỉ riêng bụi mịn PM2.5 đang cho thấy có biểu hiện mùa rõ rệt, đặc biệt thể hiện rõ vào những tháng mùa đông ở miền Bắc và có xu hướng tăng so với trung bình năm 2022. Khu vực nông thôn, miền núi tuy có chất lượng môi trường không khí khá sạch song tại một số nơi trong khu vực nông thôn các hoạt động làng nghề, hoạt động tiểu thủ công nghiệp, khai thác khoáng sản đang ảnh hưởng tới chất lượng môi trường không khí có dấu hiệu bị ô nhiễm cục bộ. Ngoài ra, các thông số không khí khác như: NO2, O3, CO, SO2 đa phần giá trị thấp, ít biến động so với cùng kỳ năm 2022 và đa phần đều đạt giới hạn cho phép của QCVN 05:2023/BTNMT - QCVN về chất lượng không khí. Trong môi trường nước, nhất là chất lượng môi trường nước trên các lưu vực sông (LVS) lớn được báo cáo đánh giá khá tốt, giá trị trung bình năm của các thông số tại một số vị trí quan trắc ít biến động qua các năm và không có nhiều biến động bất thường so với năm 2022. Cụ thể, có thể kể tới LVS Hồng - Thái Bình, LVS Mã - Chu (miền Bắc); LVS Cả - La, LVS Hương, LVS Vu Gia - Thu Bồn (miền Trung) và LVS Đồng Nai, sông Thị Vải, sông Tiền (miền Nam). Tuy nhiên, tại khu vực trung và hạ lưu, nhất là đoạn sông chảy qua khu vực dân cư tập trung, có hoạt động nuôi trồng thủy sản hoặc có tàu thuyền qua lại, chất lượng nước sông bị suy giảm. Bên cạnh đó, báo cáo tiếp tục ghi nhận ô nhiễm cục bộ tại các ao, hồ có mặt nước kín hoặc trên các kênh mương nội đồng do tiếp nhận nước thải sinh hoạt, nước thải từ hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm, sản xuất của làng nghề, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp... Về môi trường đất, báo cáo cho rằng, chất lượng môi trường đất nông nghiệp năm 2023 nhìn chung khá tốt, chưa có dấu hiệu bị ô nhiễm. Tuy nhiên, tại một số khu vực hoạt động công nghiệp, chuyên canh nông nghiệp, làng nghề có dấu hiệu bị suy giảm cục bộ do ảnh hưởng của chất thải sản xuất và việc sử dụng không hợp lý phân bón và thuốc bảo vệ thực vật dẫn tới ảnh hưởng chất lượng môi trường đất. Tại các vùng đất chuyên canh nông nghiệp, hàm lượng hữu cơ trong đất cũng ghi nhận bị suy giảm, thể hiện rõ nhất là cơ cấu chuyên canh rau, hoa, cây ăn quả, cây cảnh, một số vùng đất nông nghiệp đang dần bị chua hóa. Ngoài ra, tình trạng thoái hóa đất, sạt lở đất ở khu vực miền núi, bờ sông, ven biển; mặn hóa đất trồng trọt có xu hướng gia tăng cả về số lượng, mức độ và quy mô, ảnh hưởng đến sự an toàn và hoạt động sản xuất của người dân. Nguyên nhân chủ yếu là do lạm dụng phân hóa học, canh tác liên tục một loại cây trồng, thiếu biện pháp để cải tạo đất hợp lý và bởi các yếu tố về thời tiết. Số liệu thống kê môi trường Việt Nam giai đoạn 2014 - 2021 của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy, khảo sát mức sống dân cư Việt Nam, chính quyền các xã đánh giá ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí là hai vấn đề môi trường nổi cộm tại các xã (tỷ lệ xã có vấn đề về ô nhiễm nguồn nước năm 2008 là 22,5%, năm 2020 là 17,4%; tỷ lệ xã có vấn đề ô nhiễm không khí năm 2008 là 7,2%, năm 2020 là 8,4%). Các biện pháp bảo vệ môi trường đã đạt được những bước tiến tích cực. Tỷ lệ hộ gia đình xử lý rác thải sinh hoạt bằng cách có người đến lấy mang đi tăng dần, từ 19,4% năm 2002 lên 68,5% năm 2020; và tỷ lệ hộ gia đình vứt rác thải sinh hoạt xuống ao, hồ, sông, suối, vứt ở khu vực gần nhà giảm từ 52,8% năm 2002 xuống còn 4,5% năm 2020. Chất lượng đất và chất lượng môi trường hiện đang được quan tâm để nâng cao năng suất và hiệu quả sử dụng đất. Theo tính toán từ số liệu Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam, lượng phân đạm bình quân 1 ha đất gieo trồng tăng từ 202,1 kg năm 2008 lên 235,4 kg năm 2020; lượng phân lân sử dụng bình quân 1 ha đất gieo trồng giảm từ 149,2 kg năm 2008 xuống còn 109,4 kg năm 2020; lượng phân NPK sử dụng bình quân 1 ha đất gieo trồng tăng từ 226,2 kg năm 2008 lên 387,9 kg năm 2020. Tuy nhiên, công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) còn nhiều bất cập như tỷ lệ thu gom CTRSH nông thôn còn chưa cao, CTRSH chưa được phân loại tại nguồn, tỷ lệ tái chế còn thấp, phương thức xử lý chủ yếu là chôn lấp không hợp vệ sinh… Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của thiên tai. Giai đoạn 2001-2021, trung bình một năm có 6 cơn bão và 2 áp thấp nhiệt đới đổ bộ và ảnh hưởng đến Việt Nam. Từ năm 2007, so với các năm trước tần suất bão ảnh hưởng đến Việt Nam có xu hướng tăng. Ngoài bão và áp thấp nhiệt đới, Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của các loại thiên tai khác như: Động đất, lũ, lốc, mưa đá, ngập lụt, rét hại, sạt lở đất, sét đánh, triều cường. Thiệt hai do thiên tai gây ra tính chung 5 tháng đầu năm 2024 của Tổng cục Thống kê cho thấy, thiên tai làm 39 người chết và mất tích, 50 người bị thương; hơn 25 nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; 13,6 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết; 20,8 nghìn ha hoa màu và 9,9 nghìn ha lúa bị ngập, hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 996,7 tỷ đồng, gấp gần 2,3 lần cùng kỳ năm 2023. Về hoạt động quản lý và ngân sách bảo vệ môi trường, giai đoạn 2013-2020, chi ngân sách cho bảo vệ môi trường tăng hơn 1,6 lần, từ 16.391 tỷ đồng năm 2013 lên 26.949 tỷ đồng năm 2020. Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng là 2 vùng có mức chi ngân sách cho bảo vệ môi trường cao nhất cả nước. Để bảo vệ môi trường quốc gia, ngày 13/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 450/QĐ-TTg về Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đề ra 12 chương trình, kế hoạch, đề án trọng điểm như: Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí; Chương trình tăng cường năng lực quan trắc môi trường đến năm 2030; Chương trình đầu tư, cải tạo hệ thống thoát nước và công trình xử lý nước thải sinh hoạt các đô thị từ loại V trở lên; Xây dựng kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với sông, hồ liên tỉnh có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường theo từng thời kỳ; Chương trình bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp đến năm 2030; Chương trình phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên đã bị suy thoái đến năm 2030; Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên và ứng phó với biến đổi khí hậu; Chương trình truyền thông, nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường…
Những nhiệm vụ và giải pháp bảo vệ môi trường trong thời gian tới Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đề ra mục tiêu tổng quát, ngăn chặn xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường; giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách; từng bước cải thiện, phục hồi chất lượng môi trường; ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học; góp phần nâng cao năng lực chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh môi trường, xây dựng và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, cac-bon thấp, phân đấu đạt được các mục tiêu phát triển bền vững 2030 của đất nước. Trong mục tiêu cụ thể, Chiến lược đề ra chủ động phòng ngừa, kiểm soát các tác động xấu gây ô nhiễm, suy thoái môi trường; các vấn đề môi trường trọng điểm, cấp bách cơ bản được giải quyết, chất lượng môi trường từng bước được cải thiện, phục hồi; tăng cường bảo vệ các di sản thiên nhiên, phục hồi các hệ sinh thái; ngăn chặn xu hướng suy giảm đa dạng sinh học; góp phần nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu và đẩy mạnh giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Để đạt được các mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra 4 nhóm nhiệm vụ và 7 nhóm giải pháp. Về nhiệm vụ Chủ động phòng ngừa, kiểm soát, ngăn chặn các tác động xấu lên môi trường, các sự cố môi trường; Giải quyết các vấn đề môi trường trọng điểm, cấp bách; khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường; duy trì, cải thiện chất lượng và vệ sinh môi trường; Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, thúc đẩy bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên; Chủ động bảo vệ môi trường để góp phần nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính. Về giải pháp Một là, đổi mới tư duy của các cấp, các ngành; nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, cộng đồng và người dân. Đưa bảo vệ môi trường vào các chương trình giáo dục các cấp và trình độ đào tạo; đẩy mạnh đào tạo các chuyên ngành về môi trường; xây dựng các mô hình tiên tiến, điển hình về bảo vệ môi trường trong các cơ sở giáo dục. Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông về môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng; Nâng cao nhận thức, biến ý thức thành hành động về bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư. Hình thành và phát triển lối sống xanh, chấp hành các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường. Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường phù hợp với thể chế kinh tế thị trường.Tạo lập cơ chế, chính sách phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ môi trường, thị trường trao đổi hạn ngạch phát thải, tín chỉ các-bon... Rà soát, sửa đổi và hoàn thiện các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thân thiện với môi trường, các sản phẩm sinh thái. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường theo hướng tiếp cận với các nước phát triển. Ba là, hoàn thiện tổ chức bộ máy, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh phân cấp, tăng trách nhiệm của chính quyền địa phương về bảo vệ môi trường, đồng thời tăng cường năng lực cho các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã, tăng cường liên kết giữa các vùng và địa phương trong bảo vệ môi trường. Từng bước chuyển đổi phương thức quản lý theo hướng giảm “tiền kiểm”, tăng “hậu kiểm”, nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp. Bốn là, tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Phát triển và ứng dụng các nền tảng số, mạng xã hội, các đường dây nóng... để đẩy mạnh giám sát về môi trường. Tăng cường năng lực quản trị môi trường trong các doanh nghiệp và các khu, cụm công nghiệp. Năm là, huy động đầu tư từ xã hội, tăng dần chi ngân sách, nâng cao tính hiệu quả trong sử dụng nguồn lực về bảo vệ môi trường. Triển khai mạnh mẽ các hình thức đối tác công tư (PPP), đẩy mạnh sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân, thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong bảo vệ môi trường. Ban hành các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường đủ mạnh để giải quyết, xử lý các vấn đề môi trường. Sáu là, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; xây dựng hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới quan trắc và cơ sở dữ liệu về môi trường; Phát triển hạ tầng kỹ thuật về thu gom, xử lý nước thải; thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại đồng bộ, hiệu quả, không gây ô nhiễm môi trường; Lập và thực hiện Quy hoạch tổng thể quan trắc môi trường quốc gia giai đoạn 2021 - 2030; phát triển mạng lưới quan trắc môi trường của quốc gia, địa phương, doanh nghiệp theo hướng hiện đại và đồng bộ; Xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường thống nhất, đồng bộ, cập nhật, chia sẻ và được kết nối liên thông giữa các cấp, các ngành. Bảy là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế; Chủ động tham gia đàm phán và tổ chức thực hiện các cam kết trong các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt trong các vấn đề về biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, chất thải nhựa đại dương...; thực hiện Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương phê duyệt tại Quyết định số 1407/QĐ-TTg ngày 16/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường hợp tác song phương, đa phương; thúc đẩy thực hiện các thỏa thuận hợp tác, các dự án quốc tế về bảo vệ môi trường; Tận dụng các cơ hội của quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) để thúc đẩy bảo vệ môi trường; Chú trọng hợp tác với các quốc gia láng giềng và trong khu vực về các vấn đề môi trường xuyên biên giới./.