Bóng đá trong nước13/11/2017 06:30 PM
Bóng đá trong nước13/11/2017 06:30 PM
Vào ngày 21 tháng 5 năm 1945 đối thủ đầu tiên sau chiến tranh là Bồ Đào Nha. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1945 Thụy Sĩ đón chào Đội tuyển Ý trên sân nhà tại Zürich và qua đó đã tạo khả năng tái hội nhập vào nền bóng đá thế giới cho Ý. Chiến thắng Luxembourg 2 lần, đội Thụy Sĩ vượt qua vòng loại tham gia Giải vô địch bóng đá thế giới 1950. Đây là lần đầu tiên Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ thi đấu ngoài châu Âu. Thụy Sĩ đã thua trận đầu tiên khi gặp đội Nam Tư với tỉ số 0:3. Đối thủ trong trận thứ hai là Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil. Trận đấu với đội chủ nhà và là đội mang nhiều hy vọng đoạt giải này đã kết thúc bất ngờ với tỉ số hòa 2:2. Chiến thắng Mexico sau đó (2:1) đã không đủ để đội có thể tiếp tục vào vòng trong.
Năm 1948 Thụy Sĩ ủng hộ đơn xin tái gia nhập FIFA của Đức, nhưng đơn này đã bị từ chối. Ba trận thi đấu giữa các câu lạc bộ bóng đá Thụy Sĩ và Đức tiếp theo sau đó đã bị giới truyền thông đại chúng chỉ trích, đặc biệt là tại Hà Lan. Thụy Sĩ chỉ thoát được đe dọa cấm thi đấu của FIFA nhờ vào việc phạt những người tổ chức các cuộc thi đấu này 500 đồng Franc Thụy Sĩ[7]. Vào ngày 22 tháng 9 năm 1950, chỉ vài ngày sau khi Liên đoàn bóng đá Đức tái gia nhập FIFA, Thụy Sĩ đã là đội khách trên sân cỏ tại Stuttgart trong trận thi đấu quốc tế đầu tiên của Đức sau chiến tranh.
Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ và Phó chủ tịch FIFA Ernst Thommen đã thành công trong việc đề nghị tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 1954 tại Thụy Sĩ. Trong tháng 11 năm 1952, nhằm chuẩn bị cho đội tuyển quốc gia, một lần nữa Karl Rappan được mời giữ chức vụ huấn luyện viên. Ngày 25 tháng 4 năm 1954 đài truyền hình Thụy Sĩ lần đầu tiên truyền trực tiếp một trận thi đấu quốc tế, trận đá giao hữu với Đức. Trong trận đầu của giải, Thụy Sĩ đã có thể vui mừng chiến thắng đội Ý với tỉ số 2:1, trong khi trận gặp Anh tại Bern lại thua 0:2. Do cùng điểm, đội Thụy Sĩ và Ý phải gặp nhau một lần nữa tại Basel. Với chiến thắng 4:1 đội đã lọt vào vòng tứ kết. Trận gặp Áo đã trở thành trận có nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử Giải vô địch bóng đá thế giới. Đội Thụy Sĩ đã thua "Trận Lausanne nóng bỏng" với tỉ số 5:7 sau khi dẫn trước 3:0.
Các năm sau Giải vô địch bóng đá thế giới không mang lại nhiều thành công. Chiến thắng hiếm hoi và với huấn luyện viên Jacques Spagnoli đội đã không vượt qua được vòng loại của Giải vô địch bóng đá thế giới 1958 tại Thụy Điển. Năm 1960 Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ lại mời Karl Rappan giữ chức vụ này, lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng. Sau 3 trận thắng và 1 trận hòa trong vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1962 đội tuyển Thụy Sĩ đã gặp đội Thụy Điển, về nhì Giải vô địch thế giới, trong trận đấu quyết định. Cuộc thi đấu diễn ra trong tháng 11 năm 1961 tại Berlin và kết thúc với chiến thắng của Thụy Sĩ. Vì Bức tường Berlin đã được xây 3 tháng trước đó nên trận thi đấu trong thành phố Tây Berlin bị cô lập này mang nhiều ý nghĩa mặt chính trị. Trong giải vô địch, đội Thụy Sĩ đã bị loại ngay từ vòng đầu sau 3 lần thua đội chủ nhà Chile, Đức và Ý. Mùa hè 1964 đội tuyển bóng đá quốc gia có một huấn luyện viên mới là người Ý Alfredo Foni nổi tiếng do đã cùng đoạt Giải bóng đá của Thế vận hội 1936 và Giải vô địch thế giới 1938.
Với một ít may mắn, đội Thụy Sĩ đã vượt qua được vòng loại của Giải vô địch bóng đá thế giới 1966 tại Anh nhờ vào chiến thắng đội Hà Lan 2:1 và chiến thắng bất ngờ của đội Albani trước đội Bắc Ireland. Thế nhưng trong vòng đầu của Giải vô địch, đội đã không thể chống cự lại các đội tuyển bóng đá của Đức, Tây Ban Nha và Argentina.
Ngay từ năm 1962 Karl Rappan đã viết: "Nếu như không tái tổ chức lại bóng đá hạng cao – và phải ngay lập tức – thì với may mắn và tựa như là điều kỳ diệu bóng đá Thụy Sĩ thì tuy sẽ chiến thắng trận này hay trận khác trong thi đấu quốc tế nhưng về lâu về dài chúng ta sẽ không là gì trên trường quốc tế".[8]. Phán đoán của Rappan đã đúng. Việc Đội tuyển bóng đá quốc gia và bóng đá Thụy Sĩ nói chung ngày càng tụt hậu so bóng đá hàng đầu trên thế giới có nhiều nguyên nhân.
"Then cửa Thụy Sĩ" đã lỗi thời và không còn được áp dụng tại các câu lạc bộ. Thay vào đó, "hào bóng đá" được đào dọc theo ranh giới ngôn ngữ. Phong cách thi đấu cứng, không hoa mỹ, thiên về phòng thủ đòi hỏi nhiều thể lực và kỷ luật thống trị trong vùng Thụy Sĩ nói tiếng Đức. Trong vùng Romandie nói tiếng Pháp và - ở mức độ thấp hơn – trong vùng Ticino nói tiếng Ý các câu lạc bộ lại ưa thích lối chơi nghiên về kỹ thuật, chuyền bóng ngắn và tấn công. Trong vòng 25 năm không ai đã có thể kết hợp được 2 lối đá trái ngược nhau này. Từ 1967 đến 1989, có đến 10 huấn luyện viên đã không đạt được mục tiêu đề ra (vượt qua vòng loại của một giải vô địch thế giới hay giải vô địch châu Âu).
Trong con mắt của nhiều người, nhà thể thao Thụy Sĩ lý tưởng là một nhà thể thao nghiệp dư hay cùng lắm là bán nghiệp dư. Thể thao chuyên nghiệp cộng với việc thương mại hóa và có mặt thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng đã phải đối mặt với nhiều hoài nghi. Thêm vào đó, trên thực tế, giới chính trị đã không cổ vũ cho thể thao nói chung và thể thao hàng đầu nói riêng. Mãi đến giữa những năm của thập kỷ 1970 việc thi đấu bóng đá chuyên nghiệp mới được tiến hành từng bước một. Thời kỳ làm việc với tư cách tự nguyện và bán chuyên nghiệp còn kéo dài lâu hơn nữa trong Liên đoàn. Mãi đến năm 1995 lĩnh vực đào tạo thiếu niên mới có được huấn luyện viên chuyên nghiệp.
Trong thập niên 1970, khái niệm "thua trong danh dự" là một khái niệm thường được dùng; đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ đã thua nhiều trận, nhưng thường chỉ thua cách biệt 1 bàn. Ngược lại, hòa một đối thủ mạnh hơn lại được chào mừng như chiến thắng. Hơn nữa, trong nhiều cầu thủ, đội tuyển quốc gia chỉ có giá trị thấp. Mãi đến thời của Paul Wolfisberg mới có dấu hiệu của sự vươn lên. Trong nhiều trận thi đấu Thụy Sĩ đã có vài thành công vang dội thí dụ như chiến thắng đội Ý (vô địch thế giới năm 1982) trên sân khách. Thế nhưng thành công lại vắng bóng trong các trận thi đấu quyết định ở vòng loại. Mãi đến cuối thập niên 1980, khi Daniel Jeandupeux cũng không thể mang lại kết quả mong đợi, Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ mới thực hiện các cải cách đã trở nên cần thiết từ lâu trong cấu trúc liên đoàn và thúc đẩy bóng đá thiếu niên.
Năm 1989 Liên đoàn mời người Đức Uli Stielike giữ chức vụ huấn luyện viên. Ngay từ đầu ông đã đạt được thành tích đáng lưu ý: thắng Brasil 1:0. Mặc dầu không qua được vòng loại của Giải vô địch bóng đá thế giới 1990 nhưng việc chuyển đổi từ chiến thuật phòng vệ sang tấn công cần có thời gian. Đội tuyển chỉ thiếu một điểm là có thể vượt qua được vòng loại của Giải vô địch bóng đá châu Âu 1992.
Người Anh Roy Hodgson tiếp tục công trình xây dựng của Stielike. Đội tuyển đã thành công trong vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1994: Thụy Sĩ đứng nhì bảng sau Ý và trong tháng 8 năm 1993 đội đã đứng hạng 3 trong danh sách xếp hạng của FIFA. Lần đầu tiên sau 28 năm đội lại tham gia một Giải vô địch thế giới. Trận đầu tiên kết thúc với tỉ số hòa 1:1 với đội Hoa Kỳ. Tiếp theo sau đó là chiến thắng đội Romania 4:1 và mặc dầu thua Columbia với tỉ số 0:2 đội vẫn vào được vòng 1/8. Thế nhưng đội đã thua Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha 0:3 trong vòng này. Năm 1996 đội Thụy Sĩ đứng đầu bảng khi chấm dứt đá vòng loại của Giải vô địch bóng đá châu Âu 1996. Một hành động trên sân trước khi thi đấu trong vòng loại với Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển tại Göteborg đã được báo chí khắp thế giới đưa tin. Theo sáng kiến của đội trưởng Alain Sutter, trong lúc dàn nhạc đang chơi nhạc quốc ca, các cầu thủ đã giương cao biểu ngữ Stop it Chirac để phản đối việc tổng thống Pháp Jacques Chirac ra lệnh thử bom nguyên tử tại Moruroa. UEFA cấm tuyên bố chính trị trên sân cỏ sau đó. Các cầu thủ không bị phạt vì việc này được quần chúng và giới truyền thông đại chúng đồng tình rộng rãi.
Sau khi Hodgson chấm dứt hợp đồng làm việc trước thời hạn, Artur Jorge là người kế nhiệm. Người Bồ Đào Nha này đã bị phê phán ngay từ đầu. Sau khi ông không chọn lựa 2 cầu thủ được ưa thích là Adrian Knup và Alain Sutter cho Giải vô địch bóng đá châu Âu 1996 và không giải thích việc này rõ ràng, tờ báo Blick đã bắt đầu một đợt công kích huấn luyện viên đội tuyển quốc gia dài ngày nhất và dữ dội nhất trong lịch sử Thụy Sĩ.
Mặc cho cuộc bút chiến kéo dài nhiều tuần, đội tuyển đã bắt đầu Giải vô địch tốt đẹp với trận hòa đội chủ nhà Anh quốc 1:1. Thế nhưng sau hai trận thua Hà Lan (0:2) và Scotland (0:1) đội đã sớm bị loại và Jorge tuyên bố từ chức.
Cuộc bốc thăm chia bảng vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 đã mang lại cho Thụy Sĩ các đối thủ dường như đơn giản. Thế nhưng trận thi đấu đầu tiên dưới sự lãnh đạo của người Áo Rolf Fringer đã trở thành một sự việc đầy hổ thẹn khi Thụy Sĩ đã thua Đội tuyển bóng đá quốc gia Azerbaijan tại Baku với tỉ số 0:1, một trong những trận thua chỉ có thể so sánh được với trận thi đấu giữa Faroe và Áo năm 1990 (Faroe nhỏ bé khi đó lần đầu tiên gia nhập làng bóng đá thế giới nhưng đã thắng Áo ở trận ra quân trong vòng loại EURO 1992 với tỷ số 1:0).
Tiếp theo Fringer năm 1998 là Gilbert Gress. Đội tuyển Thụy Sĩ chỉ bị loại sít sao trong vòng loại của Giải vô địch bóng đá châu Âu 2000. Mặc dù có cùng số điểm với đội Đan Mạch đứng nhì và số bàn thắng-bàn thua tốt hơn nhưng Đội tuyển Thụy Sĩ lại kém hơn trong các trận đấu trực tiếp giữa 2 đội. Người Agentina Enzo Trossero tiếp nhận chức vụ huấn luyện viên trong năm 2000. Thế nhưng ông cũng không đạt được mục đích (vượt qua vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002). Thời gian sa sút tạm thời này có nhiều nguyên nhân: Sau Giải vô địch bóng đá châu Âu 1996 nhiều cầu thủ chính đã từ giã không thi đấu vì độ tuổi và phương án đào tạo đội trẻ khởi động từ giữa thập niên 1990 chưa mang lại đủ tài năng thay thế. Thế nhưng việc này đã có thay đổi sau đó.
Sau khi Trossero từ chức Liên đoàn bóng đá đã quyết định chọn Jakob "Köbi" Kuhn làm huấn luyện viên. Ông cũng đã từng là cầu thủ của đội tuyển từ 1962 đến 1976 và đã dẫn dắt đội tuyển bóng đá quốc gia U-21 trước đó. Nếu như Kuhn đã bị giới truyền thông đại chúng cho là một lựa chọn sai lầm sau các lần thi đấu đầu tiên thì khoảng 1 năm sau đó đã có thể nhận rõ tiến bộ của đội bóng. Kuhn đã thành công trong việc mang nhiều cầu thủ trẻ do ông dẫn dắt trước đó vào đội hình và trẻ hóa đội tuyển. Thụy Sĩ đứng đầu bảng trong vòng loại của Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004, vượt qua được Nga và Ireland. Thế nhưng đội đã không khẳng định được tài năng tại Bồ Đào Nha. Sau lần hòa 0:0 với đội Croatia là 2 lần thua Anh (0:3) và Pháp (1:3). Bàn thắng duy nhất của Thụy Sĩ trong giải này do Johan Vonlanthen (17 tuổi) mang lại, Johan trở thành cầu thủ phá lưới trẻ tuổi nhất trong lịch sử của Giải vô địch bóng đá châu Âu.
Trong vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 đội Thụy Sĩ đứng nhì bảng sau Pháp, vì thế mà phải thi đấu với đội Thổ Nhĩ kỳ (hạng ba của Giải vô địch thế giới 2002). Tiếp theo chiến thắng 2:0 trên sân nhà là thất bại 2:4 tại Istanbul. Đội Thụy Sĩ qua được vòng loại chỉ nhờ vào quy định bàn thắng trên sân khách. Sau khi cuộc thi đấu chấm dứt nhiều cầu thủ Thụy Sĩ đã bị hành hung trên sân cỏ và trên đường vào trong. Nhiều cầu thủ Thổ Nhĩ Kỳ cũng như cầu thủ Thụy Sĩ Benjamin Huggel, người cũng tham gia cuộc ấu đả, đã bị cấm thi đấu. Đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ phải thi đấu 3 trận của vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008 ở ngoài nước và không có khán giả.
Trong Giải vô địch bóng đá thế giới tại Đức, đội Thụy Sĩ đứng đầu bảng trước đội Pháp (0:0, Hàn Quốc (2:0) và Togo (2:0), nhưng lại bị Ukraina loại trong vòng 1/8 với tỉ số 0:3 khi đá luân lưu 11 m. Đội Thụy Sĩ là đội duy nhất trong lịch sử Giải vô địch bóng đá thế giới đã bị loại mà không có một bàn thua trong 2 hiệp chính, đồng thời cũng là đội duy nhất không ghi được bàn thắng nào khi đá 11 m.
Trong danh sách xếp hạng do FIFA công bố vào ngày 14 tháng 1 năm 2007 đội đang đứng hạng 17, nhưng sẽ tụt hạng do là chủ nhà nên đội Thụy Sĩ (và Áo) được tham gia Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008 mà không phải tham gia đá vòng loại.
Trang phục của các cầu thủ đội tuyển Thụy Sĩ gần như không thay đổi kể từ trận thi đấu quốc tế lần đầu tiên trong năm 1905. Trên sân nhà các cầu thủ mang áo đỏ, quần trắng và tất đỏ. Màu đỏ thường tương ứng với màu đỏ của quốc kỳ Thụy Sĩ. Trên sân khách thì màu ngược lại. Thỉnh thoảng đội cũng mang trang phục toàn đỏ hay trắng. Một chữ thập Thụy Sĩ màu trắng nổi bật đã được gắn trên áo phía ngực trái 75 năm liền. Độ lớn của chữ thập đã nhỏ đi 1/3 theo thời gian. Từ đầu thập niên 1980 chữ thập đã được thay thế bằng biểu trưng của Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ. Chỉ có thể nhận thấy chữ thập trong biểu trưng này một cách không rõ ràng. Nhà cung cấp trang phục là tập đoàn Puma AG. Đội Thụy Sĩ chỉ mang trang phục màu vàng duy nhất trong lần thi đấu hữu nghị với Áo vào ngày 11 tháng 10 năm 2006.
Cho đến nay đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ chưa từng đoạt được danh hiệu vô địch giải đấu quốc tế nào. Thành tích tốt nhất là huy chương bạc Thế vận hội Mùa hè 1924 tại Paris khi thua Đội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay trong trận chung kết. Kết quả tốt nhất trong các Giải vô địch bóng đá thế giới là ba lần vào đến vòng tứ kết (1934, 1938, 1954). Trong 6 lần tham dự Giải vô địch bóng đá châu Âu (1996, 2004, 2008, 2016, 2020, 2024), thành tích tốt nhất của đội cho đến nay là 2 lần lọt vào tứ kết của Euro 2020 và Euro 2024.
Trong thời gian gần đây đội thiếu niên đã gây được nhiều chú ý. Đội tuyển bóng đá quốc gia U17 đoạt Giải vô địch bóng đá châu Âu năm 2002 khi đá luân lưu 11 m với đội Pháp. Ngoài ra Thụy Sĩ đã vào đến bán kết của Giải vô địch châu Âu U17 năm 2002 và Giải vô địch châu Âu U21 năm 2004.
Một điều cần lưu ý trong thống kê các cầu thủ giữ kỷ lục tham gia thi đấu cho đội tuyển quốc gia và kỷ lục vua phá lưới là trong những năm đầu tiên của bóng đá tại Thụy Sĩ có rất ít trận thi đấu quốc tế được tồ chức so với ngày nay. Rudolf Ramseier là người đầu tiên qua được ngưỡng 50 trận thi đấu quốc tế; từ 1920 đến 1931 ông đã tham gia thi đấu 59 lần. Ít lâu sau đó May "Xam" Abegglen đã vượt qua Ramseier (68 lần từ 1922 đến 1937). Kỷ lục của Severino Menelli (80 trận gữa 1930 và 1943) cả một thời gian dài được coi là không đạt đến được và chỉ bị phá 4 thập niên sau đó bởi Neinz Hermann (117 lần thi đấu).
Anh em Abegglen là vua phá lưới của nửa đầu thế kỷ 20. Max Abegglen ghi 32 bàn thắng trong 68 trận, André Abegglen 30 bàn trong 52 lần thi đấu, Kubilay Türkyılmaz phá lưới 34 lần trong 60 lần thi đấu là những cầu thủ ghi bàn hàng đầu. Người hiện đang nắm giữ kỷ lục ghi bàn là Alexander Frei là 42 bàn thắng sau 84 lần thi đấu.
Xem danh sách đầy đủ tất cả các cầu thủ bóng đá cho đội tuyển quốc gia tại đây.
Đây là đội hình đã hoàn thành UEFA Euro 2024. Số liệu thống kê tính đến ngày 6 tháng 7 năm 2024 sau trận gặp Anh.
Dưới đây là danh sách sơ bộ của đội tuyển Thụy Sĩ được triệu tập trong vòng 12 tháng.
INJ Cầu thủ rút lui vì chấn thương. RET Giã từ khỏi đội tuyển quốc gia. PRE Danh sách sơ bộ.
Có thể tham khảo danh sách đầy đủ bao gồm 708 cầu thủ đội tuyển từ 1905 và cầu thủ người Thụy Sĩ chơi cho các đội tuyển bóng đá quốc gia khác tại Danh sách cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ.
Huấn luyện viên đội tuyển do Ban điều hành Liên đoàn lựa chọn. Huấn luyện viên có thể tự lựa chọn cầu thủ cho đội tuyển. Vladimir Petković hiện đang thực hiện nhiệm vụ chủ trì huấn luyện (từ 1 tháng 8 năm 2014).
Bảng dưới đây bao gồm các đội tuyển bóng đá quốc gia đã thi đấu ít nhất là 10 lần với Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ. Đội Thụy Sĩ đã thi đấu quốc tế tổng cộng 675 lần với 73 đội tuyển khác nhau. Đội thắng 214 lần, hòa 146 lần và thua 315 lần.
Thụy Sĩ có một sân vận động quốc gia: Stade de Suisse tại thành phố Bern, nhưng sân này chỉ được sử dụng cho khoảng ¼ tổng số các trận thi đấu quốc tế trên sân nhà. Thể theo hình thức tổ chức liên bang của quốc gia, tất cả các vùng hành chính lớn đều lần lượt tổ chức các trận thi đấu quốc tế. Các nơi thi đấu chính khác là sân vận động St. Jakob-Park tại Basel, Hardturm tại Zürich và Sân vận động Genève tại Lancy gần Genève.
Basel, Bern, Genève và Zürich, 4 thành phố lớn nhất của Thụy Sĩ, đã là nơi thi đấu chính ngay từ những năm đầu tiên. Thêm vào đó là Stade Olypique de la Pontaise tại Lausanne (1923) nhưng chỉ được sử dụng lần cuối vào năm 1999. Năm 2003, Sân vận động Genève thay thế sân Stade des Chrmilles nhiều truyền thống trong thành phố Genève. Các trận thi đấu hữu nghị với số lượng khán giả được dự đoán trước là không nhiều lắm cũng được tổ chức tại các thành phố nhỏ hơn.
Tất cả 320 lần thi đấu trên sân nhà của Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ được tổ chức tại các thành phố sau đây
Thể theo lời đề nghị của chủ tịch Gustav Wiederkehr, đại hội Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ năm 1958 quyết định thành lập một đội tuyển bóng đá quốc gia nghiệp dư. Quyết định này xuất phát từ tư tưởng chối bỏ thể thao chuyên nghiệp của thời bấy giờ. Hầu hết cầu thủ của đội xuất phát từ hạng thi đấu bóng đá thứ ba của Thụy Sĩ. Trận thi đấu đầu tiên với Hà Lan (1:1) vào ngày 3 tháng 11 năm 1959 được tổ chức Enschede (Hà Lan). Tất cả các cố gắng qua được vòng loại của Thế vận hội 1960, 1964, 1968 và 1972 đều thất bại. Sau trận thi đấu với Đan Mạch trong vòng loại ngày 5 tháng 11 năm 1971 tại Kopenhagen (0:4) Liên đoàn quyết định giải tán đội nghiệp dư. Có nhiều nguyên nhân đưa đến quyết định này: Số lượng khán giả bao giờ cũng rất khiêm nhường, các đội tuyển nghiệp dư từ các quốc gia Đông Âu quá mạnh và các cầu thủ trụ cột lại thường chuyển sang bán chuyên nghiệp sau một thời gian ngắn nên chưa từng có thể tổ chức được một đội bóng ăn ý.
Trực tiếp MLS trên Livesport.com. Trang này là về MLS 2024, (Bóng đá/Mỹ). Nếu bạn đang tìm kiếm các kết quả của một giải đấu khác với tên MLS, vui lòng lựa chọn môn thể thao của bạn ở menu trên cùng hoặc một mục (quốc gia) ở bên trái. Theo dõi MLS 2024 để biết các tỉ số trực tiếp, kết quả chung cuộc, lịch thi đấu và bảng xếp hạng! Các tỉ số trực tiếp trên Livesport.com: Tại đây bạn sẽ tìm thấy các cầu thủ ghi bàn, thẻ vàng/đỏ, đội hình và dự bị trong các chi tiết trận đấu. Thêm vào đó, Livesport.com cung cấp các số liệu thống kê (kiểm soát bóng, cú sút trúng/trượt khung thành, đá phạt, phạt góc, việt vị và phạm lỗi), bình luận trực tiếp và video tổng hợp trận đấu của các giải đấu bóng đá hàng đầu. Các bảng xếp hạng: Livesport.com cung cấp các bảng xếp hạng sân nhà/sân khách/tổng thể MLS 2024, phong độ (5 trận gần đây), tài/xỉu và danh sách vua phá lưới.